Khám phá những vũ điệu đáng
yêu trên vùng Tây Bắc
Vietdiscovery - Người Việt
Nam nói chung và đồng bào
Tây Bắc nói riêng từ xa xưa
đã rất ưa thích múa. Những
điệu múa dân gian vùng Tây
Bắc vừa mang đậm bản sắc văn
hóa các tộc người, lại vừa
thể hiện tính nghệ thuật cao
qua từng bước đi, điệu nhảy.
Trong mỗi điệu múa còn chứa
đựng tâm hồn, tình cảm và cả
cốt cách của người dân miền
núi. Nổi bật, có Múa xoè Tây
Bắc của người Thái Điện Biên,
Lai Châu. Nói đến nghệ thuật
dân gian của người Thái
không thể không nói đến điệu
múa xòe đặc trưng. Những
cuộc tụ họp đông vui có thể
múa xoè quanh đống lửa,
quanh hũ rượu cần với sự
tham gia đông đảo của già
trẻ, trai, gái trong tiếng
chiêng, tiếng trống rộn ràng.
Các già làng cho biết có tới
32 điệu xoè, nay chỉ còn giữ
được một số điệu. Có 2 loại
xòe là xòe vòng và xòe điệu.
Xòe vòng sôi nổi bao nhiêu
thì xòe điệu nhẹ nhàng, tinh
tế bấy nhiêu. Trong xòe điệu
còn có xòe nón rất duyên
dáng và hấp dẫn... Các cô
gái Thái trong điệu xoè nón
với chiếc nón trong tay lúc
chạm vào lúc mở ra từ từ
từng cánh như bông hoa trắng
muốt. Có lúc nón lao nhanh
trên đầu, lúc lại nhẹ nhàng
quay trên vai, nghiêng
nghiêng bên má, khi e thẹn
xoay tròn trước ngực rồi lại
dập dờn như cánh bướm mùa
xuân. Bắt nguồn từ cuộc sống,
những điệu múa dân gian của
người Thái Tây Bắc sống mãi
với thời gian, là món ăn
tinh thần không thể thiếu.
Để rồi qua mỗi điệu múa, đêm
xòe, mỗi người thêm yêu đời,
yêu người, tự tin bước vào
một ngày mới tốt đẹp hơn.
Cũng vì vậy các điệu múa
Thái đã trở thành vốn văn
hóa quý báu, là niềm tự hào
của người Thái Tây Bắc và
dân tộc Việt Nam.
Múa sạp là điệu múa dân gian
đặc sắc của dân tộc Mường
trong những dịp vui, trong
lễ hội xuân, khởi nguyên từ
vùng người Mường Hòa Bình,
Sơn La, ngày nay đã phát
triển rộng ra nhiều dân tộc
khác. Đạo cụ cần thiết cho
múa sạp phải có hai cây tre
to, thẳng và dài làm sạp cái
và nhiều cặp sạp con bằng
tre nhỏ hay nứa (đường kính
3 đến 4cm, dài 3 đến 4m).
Khi múa, người ta đặt hai
sạp cái để cách nhau vừa đủ
để gác hai đầu các cây sạp
con, từng cây sạp con đặt
song song, cách đều nhau
chừng hai gang tay tạo thành
dàn sạp. Người múa chia ra
một tốp đập sạp và một tốp
múa, mỗi tốp có thể từ vài
cặp trai gái đến nhiều cặp,
càng nhiều, đội hình càng
phong phú sinh động. Tốp đập
sạp: mỗi đôi trai gái ngồi
hai đầu một cặp sạp con và
gõ theo nhịp 4/4, cứ ba lần
gõ sạp con lên sạp cái thì
một lần gõ hai sạp con vào
nhau tạo ra âm thanh, tiết
tấu cho múa, vừa gõ vừa hát.
Tốp múa: lần lượt từng cặp
trai gái nhảy vào dàn sạp,
mỗi người cầm một chiếc khăn
màu dài, khi tung lên, khi
uốn lượn quanh người. Động
tác khi lướt nhẹ nhàng, uyển
chuyển, lúc dồn dập quay,
nhảy, bay trên sạp; đội hình
uốn lượn quấn quýt, biến đổi
ngang, dọc, chéo, tròn, tất
cả đều diễn ra trên dàn sạp
và phải đúng nhịp, làm sao
khi hai sạp con chập vào
nhau thì không bị kẹp chân
vào. Cứ hễ hai tốp gõ sạp và
nhảy múa thay nhau trong
tiếng cồng, tiếng trống nhịp
nhàng, sôi động. Cuộc vui
kéo dài không biết chán,
cuốn hút mọi người rất hào
hứng, say sưa.
Còn múa khèn là “sản phẩm”
đặc trưng của người Mông,
trong đó biểu hiện đậm đặc
nhất là ở người Mông Sa Pa.
Theo lịch sử, người Mông khi
di cư từ phương Bắc xuống
vào Việt Nam theo 2 đường
chính. Một đường tới Mèo Vạc,
Đồng Văn (Hà Giang), một
đường tới ngã ba sông Lão
Nhai rồi ngược núi lên Sa
Pa. Chính vì vậy nên các đặc
trưng văn hóa dân gian
truyền thống được giữ gìn
tốt hơn cả ở hai vùng này.
Ban đầu, múa khèn chỉ là
hoạt động trong tang ma, 6
ống khèn tượng trưng cho
tiếng khóc của 6 anh em tiếc
thương cha mẹ. Nhưng sau đó,
vì tính nghệ thuật rất cao,
các động tác biểu hiện tinh
thần thượng võ, và phong tục
của người Mông là luôn trọng
những chàng trai thổi khèn
giỏi, múa khèn hay, nên múa
khèn được đưa vào thành một
nội dung thi tài giữa các
chàng trai trong các cuộc
vui, ngày hội, hoặc phiên
chợ xuân. Múa khèn biểu hiện
tính cách người trai mạnh mẽ,
dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo
léo, tài hoa với nhiều yếu
tố nghệ thuật và kỹ thuật
cao, phải vừa thổi khèn vừa
múa mà không được để khèn
ngắt quãng. Động tác múa
khèn phong phú, đa dạng.
Đúng vũ điệu dân gian Mông
thì có 33 động tác, tổ hợp
múa khèn. Trước đây, có bài
khèn gốc phải được múa trên
bãi đóng 7 chiếc cọc cao
50cm, người múa hết bài
không được rơi xuống đất.
Cây khèn vừa là nhạc cụ độc
đáo, gồm nhiều ống trúc nhỏ
ghép lại, có thể thổi hơi ra,
có thể hít hơi vào; khèn vừa
là đạo cụ múa có cấu tạo phù
hợp với dáng khum người và
các thế quay, nhảy... Tiếng
khèn có thể một lúc phát ra
đa âm, nhiều bè, vang xa
trầm hùng như tiếng của gió
ngàn, của suối reo, chim kêu,
vượn hót, tiết tấu theo nhịp
4/4 hoặc 2/4 thích hợp với
các động tác múa khèn. Ngày
nay, múa khèn Mông với các
vũ điệu đẹp, tài hoa, dũng
mãnh và trữ tình, có sức
sống mãnh liệt, lâu bền của
văn hoá Mông, được yêu thích,
ngưỡng mộ, nhất là các du
khách trong nước và nước
ngoài khi đến với Sa Pa, đều
háo hức tìm xem múa khèn.
Các dân tộc khác ở Tây Bắc
cũng có những điệu múa dân
gian riêng, như điệu tăng bu
(dỗ ống) của dân tộc La Ha
(Lai Châu) với những cô gái
nhún nhảy mềm mại uyển
chuyển trong tiếng đệm rộn
ràng của một dàn ống tre đục
rỗng mắt, hay những vũ điệu
đầy sức hấp dẫn với các động
tác lắc mông, lượn eo uyển
chuyển của dân tộc Khơ Mú,
Xinh Mun (Lai Châu, Điện
Biên) thật sinh động và
quyến rũ, hay điệu múa
chuông nổi tiếng của dân tộc
Dao (Tả Phìn - Sa Pa, Lào
Cai). Điệu múa của dân tộc
Lự với nhịp gõ của chiếc ống
nứa cũng luôn hút hồn khách
du lịch qua miền Tây Bắc.
Bạn hãy khám phá vẻ đẹp của
những vũ điệu đáng yêu này
trên khắp vùng Tây Bắc cùng
Vietdiscovery.
|