Về miền công viên đá
Những địa danh đèo Pác Xum,
vú núi Quản Bạ, hội tình
Khau Vai, sông Nho Quế, Mã
Pì Lèng, núi đá Đồng Văn,
Lũng Cú, dinh thự họ Vương…
của Hà Giang luôn giục giã
tôi phải trở về.
Nhân thể có trại viết của
Hội Văn học Nghệ thuật các
dân tộc phối hợp với Hội Văn
nghệ Hà Giang tổ chức tại
Quản Bạ, tôi liền khoác ba
lô lên đường. Tiết trời
tháng sáu nắng nung, lại
thêm cái chuyện các chủ xe
coi "thượng đế" không bằng
rơm rác càng nóng nực… Quá
ngọ, chúng tôi cũng đến được
bến xe phía nam thị xã Hà
Giang.
Đường lên Mèo Vạc.
Ngày chủ nhật, buổi sáng
chưa có phương tiện đi Quản
Bạ, chúng tôi làm cuộc du
ngoạn vào một xã nghe nói
đang xây dựng hồ du lịch
cách thị xã không xa theo
lời giới thiệu của anh lái
xe ta-xi hôm trước. Quả là
cái hồ thiên tạo như một
thiếu nữ miền sơn cước hồn
nhiên trinh trắng trải mình
cùng non ngàn, núi đá, rừng
cây chưa hề có bàn tay du
lịch sờ mó ngoài con đường
đang rải đá. Xóm làng vắng
ngắt bao trùm một không khí
đìu hiu… Hai giờ chiều,
chúng tôi được nhà thơ Đặng
Quang Vượng, Phó Tổng biên
tập Báo Hà Giang cho đi nhờ.
Rồi từ đây, không hiểu sao
lòng dạ tôi cứ chộn rộn, háo
hức sẽ lại phát hiện được
những điều kỳ diệu huyền bí
ở xứ đá. Vẫn trên con đường
Hạnh Phúc, đoạn đèo Pác Xum,
tám năm trước còn hoang sơ
mù mịt, thì hôm nay đã nườm
nượp xe cộ lên lên xuống
xuống. Và thi thoảng bên
đường có đống dưa chuột bởi
mùa ngô đang xanh um tùm.
Bên một đống dưa, mấy đứa
trẻ mặt mày nhọ nhem, đỏ rừ
dưới trời nắng gắt, tôi đành
mua mấy quả cho phải lẽ, rồi
chia mỗi đứa 5 nghìn đồng.
Hình như mấy đứa trẻ thoáng
chút ngỡ ngàng trước cử chỉ
hào phóng lạ đời, nhưng tôi
đã chọn đưa cho đứa có vẻ
bạo dạn, nó nhận ngay, nên
mấy đứa còn lại cũng nhận
theo. Đến khách sạn Tam Sơn
- Quản Bạ, nhiều trại viên
đã lục tục đến trước. Mấy
tay ảnh đã rồ xe máy đi "săn"
tứ tung, ông nào cũng phừng
phừng khí thế, máy ảnh lủng
lẳng trước ngực, lại thêm
tóc tai bờm xờm, quần những
túi là túi. Nghề ảnh phải
thế. Làm ảnh thì lăn lê trèo
tuột cả đời.
Ai từng đến, từng qua Quản
Bạ hẳn đôi vú núi luôn đọng
trong ký ức. Năm 2001 đến
đỉnh đèo, Vương Lềnh, Phó
Giám đốc Đài Phát thanh -
Truyền hình tỉnh Hà Giang
vốn quê Quản Bạ còn chỉ cho
tôi "đôi sừng quỷ"; "các cụ
bảo khi Tiên giáng trần
xuống đây thì cũng có con
quỷ đứng xa luôn canh chừng".
Hồi ấy Quản Bạ vẫn là vùng
núi đá khô khát. Bởi khô
khát nên mới có tên thế: Bãi
cằn khô. Nhưng giờ phố núi
đã đông vui rồi. Xong việc ở
Quản Bạ, tôi định lên Mèo
Vạc thì Bí thư Huyện ủy
Giàng Cồ Hòa đi công tác về
giữ lại. "Người Mông mình
quý nhau thì phải ở làm
khách một đêm chứ!", nhưng
rượu lướt khướt cả nên không
tâm sự được nhiều, dự định
tìm đến thăm cố hương chuyên
gia chữ Mông Phan Thanh,
người Bố Y cũng không thành.
Đường lên Mèo Vạc càng cuốn
hút bởi tua tủa đá. Đá đứng
đá ngồi. Đá nghiêng đá nhô.
Đá phục đá lăn. Đá chọi mây
trời, đá trầm hương đất. Thị
trấn Mèo Vạc nằm gọn giữa
một khoảnh bằng như lòng
chảo được bao bọc bởi núi đá
lô nhô, sừng sững. Mèo Vạc,
nhiều người nhầm tưởng đây
là xứ sở người Mèo xưng vua.
Không đâu! Vùng đất này là
nơi họ Vương đến lập làng
đầu tiên, cũng như Buôn Ma
Thuột, tức làng của cụ Ama -
ythuột (cụ là bố thằng Thuột),
hay như Giàng Cha, Mã Cha… -
làng nhà họ Giàng, làng nhà
họ Mã… Ngày 13, kết thúc
buổi làm việc chiều, anh
Nguyễn Tiến Liêu, Phó Ban
Tuyên giáo Huyện ủy, một cán
bộ có thâm niên, thông tỏ
từng ngõ xóm Mèo Vạc đưa vào
thăm vài làng Mông, tiện thể
tôi cũng muốn sưu tập một
cây khèn thật “xịn”. Chúng
tôi thẳng tới một xóm ven
thị trấn. Nhà chẳng thấy,
chỉ thấy nương ngô tốt bời
bời mọc lên từ sỏi đá. Đến
khi có con chó xồ ra nhằm
thẳng bắp đùi trái, may tôi
vừa kịp buông cái túi laptop
để chắn, chắc con chó bị
giật mình từ thế chủ động
chuyển sang bị động, nên nó
gầm gừ tọt vào trong nhà.
Lúc đó mới thấy rõ có một
xóm nhà thấp xếp thành dãy
khuất chìm trong bạt ngàn
nương ngô cao lút đầu người.
Chúng tôi vào một nhà nghe
nói là thợ khèn. Người thợ
vắng nhà, chỉ có hai ông bà
già đang ốm. Ông gầy khọm,
đen đúa, nhưng xởi lởi bưng
cả đống khèn mới toanh ra.
Ông còn đem cả những cục gỗ,
những sóng trúc chuẩn bị
hình thành dáng rồi giảng
giải cho chúng tôi về cách
thức làm khèn. Chờ ông giảng
giải xong, tôi mới hỏi đến
cây khèn cũ đã lên nước bóng
nhoáng, cuống khèn đeo những
12 dải vải đỏ, tức đã 12 lần
lập chiến tích. Ông vừa ngã
giá 400 nghìn đồng thì một
cậu choai nhà có con chó đẻ
suýt cắn tôi chạy đến cò mồi
500 nghìn đồng, thế là ông
trở nết khăng khăng đòi 500
nghìn đồng. Đưa bốn trăm
rưỡi, mặt ông đã cười cười
thì cậu choai hét lên "phải
năng trăng" làm ông già
nghệt mặt vội khoanh tay ôm
gối. Hôm sau, theo chân đồng
chí Phó Ban Tuyên giáo Huyện
ủy tới một xóm Mông có ngôi
nhà nghe nói đã 400 năm, chủ
nhân họ Và, tức Vàng - Vương.
Ngôi nhà già nua tiều tụy,
nhưng vẫn bề thế giữa bạt
ngàn ngô xanh. Ngô và ngô.
Muôn năm vẫn ngô. Ngô mọc
trên sỏi đá mà mùa vụ nào
cũng xanh mướt. Ngô được mút
mát sương đêm, được liếm láp
mồ hôi người và được hít hà
hơi đá nên mới tốt thế.
Để thỏa nỗi khát khao của
tôi, chủ xe - nhà văn Nguyễn
Trần Bé, Phó Chủ tịch Hội
Văn học - Nghệ thuật Hà
Giang đành phải thuận tình
làm cuộc hành trình theo
vòng cung mom biên. Qua thị
trấn Mèo Vạc một đoạn là mở
ra một khung cảnh hùng vĩ
như bức tranh thủy mặc. Con
đường men chênh vênh bên
sườn dốc đứng toàn đá là đá.
Ngó xuống lề đường là một
dải vực với độ dốc khủng
khiếp đến chóng mặt. Nhìn
tầm gần, mặt đường như một
nhát búa chặt vát vào thân
cây cổ thụ. Nhìn tầm xa, con
đường vắt vẻo như một sợi
chỉ nhỏ giữa trùng trùng
thành vách đá sừng sững, cảm
tưởng như những bức thành đá
sẽ hất mình xuống vực sông
Nho Quế bất kỳ lúc nào. Dòng
sông Nho Quế hiện như dải
lụa khiêm nhường tận dưới
khe sâu. Mã Pì Lèng - núi
mặt ngựa, dốc thẳng đứng như
sống mũi ngựa. Ở đây, người
ta xây một vọng lầu sơn để
khách nghỉ ngơi và ngắm cảnh
hùng vĩ cho tâm hồn trải
rộng cùng nước non. Con
người nhỏ nhoi giữa một vùng
trùng điệp, hùng vĩ cũng
thấy mình phổng phao vĩ đại
lên. Chả thế mà bao lâu nay
trên thế giới vẫn có người
đi tìm kỷ lục bằng leo núi
mạo hiểm, bằng chinh phục
những đỉnh cao. Thế nhưng
vùng núi non phía Bắc Việt
Nam này hễ đâu là nơi hùng
vĩ nhất, đâu là nơi điệp
trùng nhất thì ở đó có người
Mông vốn đã sinh sống hàng
ngàn đời rồi, nào Mã Pì Lèng,
Pác Xum… của Hà Giang, nào
Ma Cheo Van, San Sả Hồ… của
Lào Cai…
Ngút ngàn rau màu nhìn từ
cột cờ Lũng Cú
Thưởng ngoạn vài phút Mã Pì
Lèng, Nho Quế trầm mặc cùng
với đá ngất ngưởng oai phong
và gió núi phóng túng thanh
cao, chúng tôi tiếp tục cuộc
hành trình qua thị trấn Đồng
Văn, đến Sà Phìn. Bất chợt
giữa độ đường thấy một cái
hồ nước trong xanh giữa khe
cạn. Đây là "hồ treo" đã
từng nghe nói? Nhà văn
Nguyễn Trần Bé nói đây là
những cái "hồ treo" do Thủ
tướng tặng Hà Giang ngàn đời
khô khát trên đá. Mục sở thị
hồ treo, tôi thêm nung nấu
triết tự Hồ Zàng, những địa
danh dân gian đặt từ thời
tiền sử mà sao ngôn từ hoa
mỹ toàn bích vậy. Hồ Zàng
không phải cái hồ nước thật,
mà là cả một vùng bảng lảng
sương khói giữa dương gian.
Còn bây giờ thì Hồ Zàng
không còn phải triết nghĩa
văn chương nữa. Rẽ vào khu
dinh thự họ Vương, cách đây
tám năm, đã trở nên rêu
phong hoang tàn thì bây giờ
cả tòa dinh thự được sống
lại uy nghi bề thế bởi có sự
đầu tư của Nhà nước thành
khu bảo tồn văn hóa với
những đồ dùng rất đặc trưng
Mông. Không nán lại lâu bởi
đường còn xa. Lên đến cổng
trời, một cửa ải để sang Phố
Cáo, ngoái lại, thấy một hồ
treo nữa đang hình thành,
những người khuân vác đá,
cát, xi măng đông nghịt, tấp
nập như cả một đàn kiến cần
mẫn. Có lẽ công trình nhân
tạo ít thấy ở Việt Nam và
chỉ thấy ở Hà Giang.
Giờ đây tuy đã mang một cái
tên hòa nhập khá mỹ miều:
Công viên địa chất toàn cầu
cao nguyên đá Hà Giang,
nhưng những giọt mồ hôi sôi
xèo trên đá cuồn cuộn trong
trái tim tôi muôn điều tâm
sự...
|